Điểm Hành Hương Phật Giáo Nổi Tiếng Bắc Ninh -CHÙA BÚT THÁP & Tháp Cửu Phầm Liên Hoa



Chùa Bút Tháp giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật
Nằm trên địa phận xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, từ lâu chùa Bút Tháp, hay còn gọi là Ninh Phúc Tự, đã rất nổi tiếng bởi sự độc đáo về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử lâu đời, cũng như phong cảnh hữu tình thơ mộng.

“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng rờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm mầu nước non”.
Đến với cửa Phật nơi này ta không khỏi ngạc nhiên trước cảnh thiên thơ mộng, thực mà như mơ với bao huyền thoại về một xứ sở của vùng Dâu, Kinh Bắc. Chùa Bút Tháp tọa lạc trong một khuôn viên rộng hơn 10.000m2, bên bờ Nam con sông Đuống hiền hòa. Chùa cổ dấu xưa đến nay đã trải qua mấy trăm năm, nhưng vẫn còn giữ được vẻ đẹp trong sự thăng biến của bao đời.
1. Lịch sử
Mặc dù là một ngôi chùa cổ và rất nổi tiếng của xứ Kinh Bắc nhưng mốc chính xác của năm khởi dựng thì chưa có một tài liệu nào đề cập cũng như lưu lại. Trong cuốn L’art vietnamien “nghệ thuật Việt Nam” của L.Bezacier (Nhà nghiên cứu người Pháp, xuất bản năm 1944) cho biết: “Trạng nguyên Lý Đạo Tái, sinh năm 1254, quê làng Vạn Tư, huyện Gia Định, đỗ trạng nguyên năm 1274 - ông cáo quan về chùa Bút Tháp tu hành và mất năm 1333. Nếu theo tài liệu trên thì ngôi chùa đã có từ thế kỷ 13 hoặc thế kỷ 14.
Cũng theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278).Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ XVII, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc KiếnTrung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hành, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa có tên chữ là "Ninh Phúc Thiền Tự" được xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc".

Sang đầu thế kỷ 18, chùa Ninh Phúc lại được tu sửa với quy mô lớn. Bia "Ninh Phúc thiền tự bi kí" dựng năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) chép rằng "trong xã vốn có danh lam cổ tích là chùa Ninh Phúc, tuy được mở dựng bởi bậc thánh đời trước, nhưng qua nhiều năm đã hư hoại" và được các quan viên như Luân Quận công họ Lê, Nhu Thuận quận chúa họ Trịnh, Thể Thái Hầu là Lê Hội, Dĩnh Quận Công Lê Đĩnh, Ninh Lộc Hầu Lê Vịnh,... cho tu sửa thêm khang trang hơn mà "chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân làng góp sức mời thợ cất dựng sửa sang, điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng rải, trang điểm một bầu thế giới Lưu ly" (Khánh Lưu bi kí-1714). So với trước kia thì sau khi chùa được dựng lại thêm "dãy nhà riêng ở phía sau Phật đường", chùa đã quy mô to lớn hơn trước hơn rất nhiều.
Sau đó hơn 20 năm thì chùa lại được trùng tu một lần nữa, lần này có lẽ là lần định hình nên kiến trúc và diện mạo của chùa cho đến ngày nay, bao gồm toàn diện các toà nhà đều được trùng tu lại cho thêm mới. Bia tháp Tôn Đức dựng năm 1739 cho biết "trụ trì chùa Ninh Phúc là Sa môn Tính Hài hưng công tu sửa trang hoàng, tu dựng tượng vàng ngày lành tháng 4 năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) triều Lê". Cũng trong lần tu sửa này toà Cửu phẩm liên hoa cũng được tạo dựng.
Sau bao tan biến của bể dâu, triều chính thay đổi, dân tình nghèo đói tan tác, dấu cũ chùa xưa thêm tiêu điều, các cao tăng thạc đức của chùa vắng bóng như hầu hết các chùa trên đất Việt giai đoạn này. Cũng từ đây không còn dấu sách, văn bia nào ghi chép về các thiền sư của chùa mà chỉ còn lại đôi chút hình ảnh chùa Bút Tháp trong các thư tịch về một thắng tích còn vang bóng một thời.
Đầu thời Nguyễn, sau một thời gian đất nước dần trở về sự ổn định và nhân dân yên ổn làm ăn thì nhu cầu tâm linh của họ được chú trọng. Cùng với thời gian diện mạo chùa xưa nay đã tiêu điều, chuông cũ tiếng vang không còn được như xưa, dân tình và các quan viên hương lão đã họp bàn đúc lại chuông.
Sang thế kỷ 20, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Trọng Phu đi qua vùng Thuận Thành thấy chùa hoang vắng tàn lụi nên bàn bạc cùng quan lại thu thập tiền của mà trùng tu "từ ngày 1 tháng 10 năm Quý Mão khởi công tu sửa chùa, tới ngày 15 tháng 3 năm Giáp Thìn (1905) thì hoàn thành". Từ đó tới nay đã 100 năm, chùa lại mấy lần được sửa sang, như các năm 1937, 1940, 1957 và gần đây là đợt có quy mô lớn vào các năm 1990-1993.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739190319151921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Tương truyền, thuở xưa đàn chim nhạn ở các núi trên thường bay về đậu trên ngọn tháp đá của chùa-cảnh thiền đất lành chim đậu, và tên chùa Nhạn Tháp cũng được hình thành là thế. Đời Tự Đức (1848-1883), ngôi chùa bắt đầu mang tên mới là Bút Tháp.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được Bộ Văn hóa -Thông tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.
2. Kiến trúc

 
Cũng như nhiều ngôi chùa cổ phía Bắc khác, chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc. Quần thể kiến trúc chùa Bút Tháp như một ốc đảo dài điểm xuyết cây xanh, nổi bật trên một cánh đồng sóng lúa mênh mông với bố cục hài hòa gọn gàng và rất sinh động giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt, đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhãChùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, những người xây dựng chùa đã xử lý rất tốt về tỷ lệ, độ giãn cách, độ cao của tầng nền và nhịp điệu cao thấp của các công trình. Ngoài cùng là tam quan, tiếp đó là gác chuông hai tầng tám mái nằm giữa hai dãy hành lang (mỗi dãy dài 26 gian) là 7 tòa nhà nối tiếp nhau: Nhà Tiền Đường, nhà Thiên Hương, nhà Thượng điện, nhà Tích Thiện Am, nhà Trung, phủ thờ, hậu đường (tổng chiều dài hơn 100m), trong đó cótháp đá Tôn Đức năm tầng, cao 10m là nơi đặt xá lị Thiền sư Minh Hành, vị tổ thứ hai củachùa. Bên trái chùa có nhà thờ tổ Chuyết Chuyết và ngôi tháp đá tám mặt, năm tầng cao 13m là nơi táng xá lị của Thiền sư Chuyết Chuyết. Ngoài ra, còn có tháp Ly Chân, tháp Tâm Hoa, thấp hơn, song tất cả cũng được dựng bằng đá, được trạm trổ tinh xảo và điều đặc biệt là các ngọn tháp ở đây đều được ghép đá lại với nhau chứ không dùng chất kết dính (vôi, vữa, xi măng).
Chùa Bút Tháp có kiến trúc hoà nhập với môi trường thiên nhiên bao quanh. Người xưa đã biết kết hợp cảnh quan của cả vùng để tạo nên sự hoà nhập đó. Với cảnh quan hiện có, chúng ta thấy bên trái chùa có dòng sông Đuống, trước cửa chùa là đồng ruộng mênh mông, xa xa ở phía trái và phía phải chùa có núi Tam Đảo, núi Phật Tích bao bọc. Chùa không vươn lên theo chiều cao mà các đơn nguyên kiến trúc đều được trải dài theo mặt bằng. Do hoàn cảnh địa lý của một xứ sở nhiều nắng, lắm mưa, nên người Việt buộc phải có kiến trúc với những bộ mái lớn. ở chùa Bút Tháp cũng vậy, nhìn từ ngoài vào, chúng ta sẽ thấy ngay chiều rộng của mái chiếm gần 2/3 chiều cao. Hiện tượng đó càng như kéo kiến trúc xuống sát mặt đất hơn, kết quả là kiến trúc trở nên đầm ấm. Chính vì thế mà không gian của chùaBút Tháp như vừa đóng, vừa mở, dù có tường vây bao bọc mà ranh giới giữa chùa với bên ngoài ít phân biệt trong tâm thức.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt, phía ngoài Thượng điện có lan can bằng đá xanh bao quanh có 26 bức chạm khắc đá, chạm khắc các hình động vật, điểm xuyết thêm mây, trời, hoa, lá... , trên lan can cầu đá nối với Tòa Thích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy tổng cộng các bức trạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại. Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
 
Nối giữa Thượng điện và Tích thiên Am là một ngôi nhà có ba tầng mái  là chiếc Cầu đá cong bắc ngang qua hồ nước trồng sen tinh khiết. Cầu dài 4m gồm 3 nhịp uốn cong vồng, mặt cầu lát đá xanh trơn nhẵn, hai bên cầu có 12  bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá đã được chạm khắc rất công phu, tinh xảo và bố trí rất hợp lý: đầu cầu là hai con sư tử và thành cầu là những kiểu chạm trổ cổ quen thuộc, rất hài hoà.
Trong Tích thiện am, có Tháp quay Cửu phẩm liên hoa – Hoa sen chín tầng – Tháp cao chín tầng như 9 đài sen, 8 mặt đều đặn thể hiện 8 phương của nhà Phật, ngăn cách các tầng là một bức gỗ chạm cánh sen nở xoà bốn phía, đầu nhọn khối nổi phồng. Chín đài sen tượng trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo. Điều đặc biệt là nó có thể quay được và không hề phát ra tiếng kêu dù được làm từ mấy thế kỷ, mỗi vòng quay của tháp ứng với 3.542.400 câu niệm phật.
Trong chùa còn lưu giữ được rất nhiều cổ vật: Bia đá, lô nhang, am thờ, án giao,…Chùa BútTháp có một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc so với những ngôi chùa khác. Tượng Phật giáo ở đây có nhiều loại, như tượng các vị Bồ Tát, tượng Hộ Pháp, tượng các vị La Hán... trong đó có những pho rất quý, nổi tiếng cả nước và được giới nghiên cứu xem là khuôn mẫu của tượng Phật giáo Việt Nam, như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Tuyết Sơn, bộ tượng Tam thế Phật,... Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáoBồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam, ngoài ra còn có bộ tượng tam thế, tượng Quan âm tọa sơn, tượng Văn Phù và Phổ Hiền Bồ Tát, các pho tượng hậu bằng gỗ như tượng Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, tượng Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên, tượng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ và rất nhiều các pho tượng cổ khác, là những tác phẩm nghệ thuật vô giá.
Tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hết sức điêu luyện, do Trương Thọ Nam tạc và hoàn thành vào năm 1656, thời Hậu Lê. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm, tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 958 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Tượng được đặt trên toà sen Rồng đội với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ, đằng sau là vầng hào quang toả sáng, bên dưới là các hình trang trí sóng nước sống động như một thuỷ cung. Trên bệ tượng có khắc dòng chữ Hán: Nam Đông Giao, Thọ Nam - Trương tiên sinh - phụng khắc (tạm hiểu: Nam Đông Giao là địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu, Trương là họ, tiên sinh là bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ). Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật). Ðiều kỳ lạ là mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt mi dài, đen láy, độc đáo hơn nữa là nhịp điệu mỗi cánh tay không giống nhau. Nhìn tổng thể tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
 
Bên cạnh đó, Tháp Bảo nghiêm cũng là một trong những kiến trúc tiêu biểu của chùa. Năm 1876, khi vua Tự Đức đi qua đây thấy có cây tháp khổng lồ nên đã gọi là Bút Tháp. Đó chính là Tháp Bảo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá lấy đề tài chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
4. Lễ hội chùa Bút tháp
Lễ hội chùa Bút Tháp là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào ngày 23 và 24 tháng 3 âm lịch hàng năm tại chùa Bút Tháp, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Được tổ chức thường niên với các hoạt động đậm nét văn hóa truyền thống, lễ hội góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Lễ hội gồm 2 phần, trong đó phần lễ với những hoạt động tín ngưỡng như: Lễ cúng Phật, Lễ dâng hương, Lễ cúng đàn trần tế cầu phúc, Lễ cúng Tổ...  được diễn ra chủ yếu trong khu nội tự. Các lễ hội tín ngưỡng này thu hút rất đông du khách thập phương tham gia.
Sau phần lễ là đến phần hội với các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao như: Cờ tướng, bóng bàn, thi thả chim bồ câu và biểu diễn nghệ thuật chèo…Các hoạt động này không chỉ thu hút nhân dân trong tỉnh, mà còn có sự tham gia, giao lưu của nhiều đoàn văn nghệ, thể thao ở các tỉnh khác như Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên…   
Vương Bắc Giang

No comments:

Post a Comment